I. Quyền và nghĩa vụ của cha mẹ đối với con
Theo Điều 69 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy dịnh về quyền và nghĩa vụ của cha mẹ đối với con như sau:
– Thương yêu con, tôn trọng ý kiến của con; chăm lo việc học tập, giáo dục để con phát triển lành mạnh về thể chất, trí tuệ, đạo đức, trở thành người con hiếu thảo của gia đình, công dân có ích cho xã hội.
– Trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình. – Giám hộ hoặc đại diện theo quy định của Bộ luật Dân sự cho con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự.
– Không được phân biệt đối xử với con trên cơ sở giới hoặc theo tình trạng hôn nhân của cha mẹ; không được lạm dụng sức lao động của con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động; không được xúi giục, ép buộc con làm việc trái pháp luật, trái đạo đức xã hội.
II. Các trường hợp cha, mẹ bị hạn chế quyền đối với con chưa thành niên?
Tại khoản 1 Điều 85 Luật Hôn nhân và gia đình 2014, Tòa án có thể tự mình hoặc theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức quy định ra quyết định không cho cha, mẹ trông nom, chăm sóc, giáo dục con, quản lý tài sản riêng của con hoặc đại diện theo pháp luật cho con trong thời hạn từ 01 năm đến 05 năm trong các trường hợp:
(1) Cha, mẹ bị Tòa án kết án bằng bản án có hiệu lực pháp luật về một trong các tội quy định tại Chương XIV Bộ luật Hình sự đối với con chưa thành niên với lỗi cố ý.
Ví dụ: Cha, mẹ bị kết án bằng bản án có hiệu lực pháp luật về tội “Cố ý gây thương tích” quy định tại Điều 134 của Bộ luật Hình sự đối với con chưa thành niên.
(2) Cha, mẹ mua, bán, tặng cho, hủy hoại hoặc hành vi khác làm thiệt hại đến tài sản của con mà không vì lợi ích của con.
(3) Cha, mẹ có lối sống ăn chơi, tiêu khiển thấp hèn, xấu xa, hư hỏng, trái với thuần phong, mỹ tục của dân tộc.
Ví dụ: Cha, mẹ thực hiện hoạt động mại dâm.
(4) Cha, mẹ có hành vi kích động, dụ dỗ, thúc đẩy, ép buộc bằng lời nói, cử chỉ hoặc bằng bất cứ hình thức nào dẫn đến con làm những việc trái pháp luật, trái đạo đức xã hội.
Ví dụ: xúi giục, ép buộc dẫn đến con bỏ học, trộm cắp, lừa đảo, vận chuyển trái phép chất ma túy.
Bên cạnh đó, Tòa án có thể quyết định rút ngắn hời hạn hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên trong trường hợp cha, mẹ đã thực hiện được một phần hai thời hạn theo quyết định của Tòa án và trong thời hạn này, cha, mẹ không thực hiện một trong các hành vi trên.
III. Người có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên
Theo quy định tại Điều 86 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014, người có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên bao gồm:
– Cha, mẹ của con chưa thành niên.
– Người giám hộ của con chưa thành niên.
– Người thân thích (ông, bà nội, ông, bà ngoại, anh, chị, em ruột, cô, dì, chú, bác…) của con chưa thành niên.
– Cơ quan quản lý nhà nước về gia đình.
– Cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em.
– Hội liên hiệp phụ nữ.
Như vậy, không chỉ cá nhân có quan hệ huyết thống trực tiếp mà cả các tổ chức xã hội, cơ quan nhà nước cũng có quyền yêu cầu Tòa án xem xét hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên khi có căn cứ cho rằng việc thực hiện quyền của cha, mẹ gây ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của con.
Trên đây là những phân tích về quyền, nghĩa vụ của cha mẹ đối với con và các trường hợp bị Tòa án hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên theo quy định pháp luật hiện hành. Chúng tôi sẽ tiếp tục cập nhật thông tin khi có những sửa đổi, bổ sung mới của pháp luật.
Quý khách tham khảo thêm các bài viết liên quan tại Mục Hỏi đáp trên website của chúng tôi. Trong trường hợp Quý khách có những thắc mắc và yêu cầu khác, vui lòng liên hệ Luật Vũ Lê:
- Địa chỉ: Tầng 2 số 11 Lô 6 Khu đô thị Đền Lừ II, phường Tương Mai, Hà Nội
- Điện thoại: 034 430 8228
- Zalo: Công ty Luật TNHH Vũ Lê
- Facebook: Luật Vũ Lê